Sự chuẩn bị của quân Đồng Minh Chiến_dịch_Overlord_(1944)

Tháng 6 năm 1940, Quốc trưởng Đức Quốc Xã Adolf Hitler đã coi sự sụp đổ của nước Pháp là "chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử".[10] Hơn 338.000 binh sĩ Đồng Minh (phần lớn thuộc Lực lược Viễn chinh Anh - BEF) đã được di tản khỏi khu vực Dunkirk ở miền bắc nước Pháp về Anh từ ngày 27 tháng 5 tới ngày 4 tháng 6.[11] Các nhà hoạch định chiến lược của Anh đã báo cáo với Thủ tướng Winston Churchill vào ngày 4 tháng 10 rằng, ngay cả khi có sự giúp đỡ của Khối Thịnh vượng chungHoa Kỳ, họ vẫn không đủ sức để lấy lại chỗ đứng tại Châu Âu trong tương lai gần.[12] Sau khi quân đội Phát xít mở cuộc xâm lược vào Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin bắt đầu yêu cầu các nước Đồng Minh phương Tây mở một mặt trận thứ hai ở Tây Âu. Churchill nhanh chóng từ chối vì Churchill cảm thấy rằng ngay cả khi có sự giúp đỡ của người Mỹ, người Anh vẫn không có đủ lực lượng để thực hiện một chiến dịch lớn như vậy,[13] và ông không muốn lặp lại những cuộc tấn công gây nhiều thương vong và tốn kém như Trận SommePasschendaele trong Thế chiến thứ nhất.[14] Hai kế hoạch dự kiến, Chiến dịch RoundupChiến dịch Sledgehammer, đã được đệ trình vào năm 1942-1943, nhưng cả hai đều được người Anh coi là phi thực tế và ít có khả năng thành công.[15] Thay vào đó, quân đội Đồng Minh đã mở rộng hoạt động của họ tại khu vực Địa Trung Hải, bắt đầu bằng việc phát động cuộc đổ bộ vào Bắc Phi vào tháng 11 năm 1942, đổ bộ vào Sicily vào tháng 7 năm 1943 và đổ bộ vào Ý trong tháng 9 năm 1943.[16] Các chiến dịch này đã cung cấp cho quân Đồng Minh nhiều kinh nghiệm quý báu về chiến tranh đổ bộ.[17]

Quyết định vượt Eo biển Manche để tiến hành một chiến dịch đổ bộ lớn trong năm tiếp theo đã được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Trident, tổ chức tại Washington vào tháng 5 năm 1943.[18] Churchill ủng hộ việc tấn công vào Đức từ khu vực Địa Trung Hải, nhưng bị người Mỹ từ chối.[19] Trung tướng Frederick E. Morgan được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Tư lệnh Tối cao Đồng Minh châu Âu (COSSAC), và bộ tham mưu Anh-Mỹ dưới sự chỉ đạo của ông được thành lập để xây dựng chiến dịch đổ bộ.[18] Các kế hoạch ban đầu được đưa ra trong hội nghị bị từ chối do số lượng tàu đổ bộ hiện giờ có hạn, và phần lớn lại đang tập trung cho các chiến dịch ở Địa Trung Hải và Thái Bình Dương.[20] Sau sự thất bại ở Dieppe ngày 19 tháng 8 năm 1942, quân Đồng Minh quyết định sẽ không đổ bộ trực tiếp vào các bến cảng được bảo vệ nghiêm ngặt tại Pháp.[21] Thất bại tại Dieppe cũng giúp các nhà chỉ huy Đồng Minh thấy được tầm quan trọng của việc có đầy đủ pháo binh và không quân hỗ trợ, đặc biệt là yểm trợ trên không tầm gần, và các tàu chuyên dụng có thể di chuyển cực kỳ gần bờ.[22]

Các nhà chỉ huy Đồng Minh bắt đầu xem xét kỹ lưỡng bốn địa điểm để thực hiện cuộc đổ bộ: Brittany, Bán đảo Cotentin, NormandiePas-de-Calais. Do Brittany và Cotentin là các bán đảo, lực lượng đổ bộ tại đây có thể dễ dàng bị quân Đức chia cắt và cô lập tại một khu vực tương đối hẹp, nên hai khu vực này đã bị loại bỏ.[23] Pas-de-Calais, do là khu vực có vị trí ở lục địa Châu Âu gần với nước Anh nhất, và là vị trí đặt các bãi phóng tên lửa V-1V-2, nên nó cũng được người Đức coi là địa điểm đổ bộ hợp lý nhất và được tăng cường quân bảo vệ nghiêm ngặt nhất.[24] Dù quân Đồng Minh có quyết định đổ bộ vào Pas-de-Calais, họ sẽ khó có thể thực hiện các chiến dịch tiến sâu vào trong đất liền một cách hiệu quả do khu vực được bao phủ bởi nhiều hệ thống sông và kênh đào.[25] Trong khi đó, Normandie, nếu quân Đồng Minh thực hiện cuộc đổ bộ tại đây, họ có thể đe dọa trực tiếp tới khu cảng ở Cherbourg, các cảng ven biển xa hơn ở phía tây Brittany, và có thể tiến hành một cuộc tiến công về Paris và cuối cùng là vào Đức. Do đó, Normandie được chọn làm địa điểm đổ bộ chính thức.[26] Điểm bất cập duy nhất tại khu vực ven biển Normandie là sự vắng mặt của các hệ thống cảng biển, và điều đó sẽ được khắc phục bằng các bến cảng nhân tạo Mulberry.[27]

COSSAC bắt đầu lên kế hoạch tấn công vào Normandie vào ngày 1 tháng 5 năm 1944, có mật danh là Chiến dịch Overlord, sau khi bản thảo về chiến dịch này đã được chấp thuận tại Hội nghị Quebec vào tháng 8 năm 1943.[25] Đại tướng Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Viễn chinh Đồng Minh (SHAEF)[28] và Thống chế Bernard Montgomery được bộ nhiệm làm chỉ huy Cụm tập đoàn quân số 21, bao gồm toàn bộ lực lượng mặt đất sẽ tham gia vào chiến dịch xâm lược.[29] Ngày 31 tháng 12 năm 1943, Eisenhower và Montgomery xem qua bản thảo đầu tiên của chiến dịch, sẽ bao gồm ba sư đoàn bộ binh và 2/3 lực lượng của một sư đoàn không vận để thực hiện cuộc đổ bộ. Hai vị tướng lập tức đề nghị mở rộng quy mô lực lượng lên năm sư đoàn bộ binh và ba sư đoàn không vận, để có thể tiến hành chiến dịch trên mặt trận rộng hơn. Quy mô mặt trận được tăng lên từ 40 kilomét lên 80 kilomét, sẽ giúp việc vận chuyển binh lính, trang thiết bị và hàng hóa lên bờ nhanh hơn, và sẽ khiến quân Đức khó triển khai phòng thủ và đẩy nhanh tiến độ chiếm đóng cảng ở Cherboug. Việc mở rộng chiến dịch đồng nghĩa với việc quân Đồng Minh cần phải có thêm nhiều xuồng đổ bộ hơn, do vậy, chiến dịch đổ bộ đã phải hoãn lại đến tháng 6.[29] Theo kế hoạch chính thức, có tổng cộng 39 sư đoàn của quân Đồng Minh sẽ tham gia đổ bộ vào Chiến dịch Overlord, bao gồm 22 sư đoàn của Hoa Kỳ, 12 sư đoàn của Anh, ba sư đoàn của Canada, một sư đoàn của Ba Lan và một sư đoàn của Pháp Tự Do, với quân số tổng cộng là hơn một triệu người.[30][31]

Kế hoạch của quân Đồng Minh

Lộ trình di chuyển của các đơn vị Đồng Minh trong Ngày D

Overlord được lấy làm tên cho chiến dịch xâm lấn và đánh chiếm lớn tại khu vực Normandie, nhằm thành lập một mặt trận chống Phát xít quy mô lớn tại Châu Âu.[32] Giai đoạn đầu tiên là chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không nhằm thiết lập một bàn đạp vững chắc để tiến sâu vào trong đất liền, có mật danh là Chiến dịch Neptune.[27] Để tạo thế thượng phong trên bầu trời nhằm đảm bảo cho sự thành công của chiến dịch, quân Đồng Minh đã tiến hành một chiến dịch ném bom lớn, có mật danh Chiến dịch Pointblank, nhằm vào các nhà máy sản xuất máy bay, khu cung ứng nhiên liệu, và sân bay của Đức.[27] Ngoài ra, một chiến dịch đánh lạc hướng quân Đức, có mật danh là Chiến dịch Bodyguard, đã được quân Đồng Minh tiến hành suốt nhiều tháng trước Chiến dịch Overlord để ngăn Đức biết được thời gian và vị trí thực của Chiến dịch Overlord.[33]

Khu vực bờ biển của Normandie được chia thành 17 phân khu, với định danh theo bảng chữ cái - từ Able (A) ở phía tây Omaha tới Roger (R) ở sườn phía đông của Sword. Utah ban đầu được định danh là "Yoke" và Omaha là "X-ray" theo bảng chữ cái phiên âm. Tên của hai bãi biển sau được đổi lại thành "Utah" và "Omaha" theo gợi ý của tướng Bradley. Thêm tám khu vực đổ bộ nữa được thêm vào khi Bộ chỉ huy mở rộng kế hoạch đổ bộ, bao gồm cả Utah. Các phân khu sẽ được chia thành các bãi biển được xác định bằng các màu Xanh lá cây (Green), Đỏ (Red) và Trắng (White).[34]

Bản đồ ghi lại vị trí bãi đổ bộ và các đơn vị đổ bộ trong Ngày D của Chiến dịch Neptune.

Mục tiêu chính ban đầu của Overlord là chiếm giữ bốn thị trấn chiến lược là Carentan, Isigny, Bayeux, và Caen. Chiến dịch sẽ được mở màn bằng các cuộc đổ bộ của lính dù Đồng Minh gần khu vực Caen, ở sườn phía đông khu vực đổ bộ, để kiểm soát các cây cầu trên Sông Orne, và phía bắc Carentan ở sườn phía tây. Quân Mỹ sẽ đổ bộ lên hai bãi biển có định danh là UtahOmaha, sau đó chiếm Carentan và Saint-Lô trong ngày đầu tiên, sau đó cô lập Bán đảo Cotentin và cuối cùng chiếm hệ thống cảng tại Cherbourg. Quân Anh ở hai bãi biển GoldSword, và quân Canada ở Juno, sẽ bảo vệ sườn phía đông của Mỹ và thiết lập các sân bay dã chiến gần Caen trong ngày đầu tiên. Việc chiếm giữ Caen và các khu vực lân cận sẽ giúp lực lượng Anh-Canada hình thành một chỗ đứng vững chắc để có thể tiến quân về phía nam đánh chiếm thị trấn Falaise. Một khu hành lang rộng lớn sẽ được thiết lập sau khi toàn bộ các đơn vị tại năm bãi đổ bộ hội quân được với nhau, sau đó sẽ tiến công đánh chiếm các khu vực ở phía bắc Avranches-Falaise trong ba tuần đầu tiên của chiến dịch. Sau đó, quân đội Đồng Minh sẽ rẽ trái để tiến công về khu vực Sông Seine.[35][36][37]

Hạm đội đổ bộ được chỉ huy bởi Đô Đốc Bertram Ramsey và được chia thành hai lực lượng tác chiến: Lực lượng Đặc nhiệm Hải quân phía Tây (chỉ huy bởi Đô đốc Alan G. Kirk) chịu trách nhiệm hỗ trợ các bãi đổ bộ của người Mỹ, và Lực lượng Đặc nhiệm Hải quân phía Đông (chỉ huy bởi Đô đốc Philip Vian) sẽ phụ trách bãi đổ bộ của người Anh và Canada.[38][39] Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ, được chỉ huy bởi Trung tướng Ormar Bradley, bao gồm hai nhóm chính: Quân đoàn VII sẽ đổ bộ vào Bãi Utah và Quân đoàn V sẽ đổ bộ vào Bãi Omaha. Trung tướng Miles Dempsey được giao quyền chỉ huy Tập đoàn quân số 2 Anh Quốc: Quân đoàn XXX có nhiệm vụ đổ bộ vào Bãi Gold, Bãi SwordJuno sẽ do Quân đoàn I đảm nhiệm.[40] Toàn bộ lực lượng trên bộ sẽ được đặt dưới sự chỉ huy của Thống chế Montgomery.[41]

Nhiệm vụ trinh sát

Nhiệm vụ và tầm hoạt động của Không quân Đồng Minh tại khu vực Normandie, Pháp.

Lực lượng Không quân Viễn chinh Đồng Minh (AEAF) đã thực hiện hơn 3.200 phi vụ trinh sát từ tháng 4 năm 1944 tới ngày bắt đầu Chiến dịch Overlord. Những bức ảnh về vùng biển miền bắc nước Pháp được chụp ở độ cao cực kỳ thấp để có thể giúp các sĩ quan Đồng Minh xác định được đặc điểm địa hình và cách quân Đức bố trí hệ thống chướng ngại vật và lô cốt phòng thủ. Để tránh việc làm lộ kế hoạch với quân Đức, các phi vụ trinh sát đã được thực hiện trên toàn bộ đường bờ biển của Châu Âu. Các khu vực trong đất liền, những cây cầu, doanh trại, và các tòa nhà cũng được chụp lại từ nhiều góc độ để có thể cung cấp cho quân Đồng Minh càng nhiều thông tin càng tốt.[42][43]

Nhiều thông điệp vô tuyến của Đức được mã hóa bằng máy Enigma và các kỹ thuật mã hóa khác, và các đoạn mã này thường xuyên được thay đổi. Một nhóm phá mã làm việc tại Bletchley Park đã làm việc cật lực để bẻ các đoạn mã càng nhanh càng tốt để cung cấp cho quân Đồng Minh về kế hoạch và sự di chuyển quân của người Đức. Tình báo quân đội Anh đã đặt tên việc phá mã này là Ulta, do các đoạn thông tin được giải mã này chỉ được chuyển tới các cấp chỉ huy cao nhất của quân đội Đồng Minh. Những đoạn thông tin của Thống chế Gerd von Rundstedt - Chỉ huy trưởng Mặt trận phía Tây, được mã hóa bằng máy Enigma, đã bị tình báo Đồng Minh giải mã thành công từ cuối tháng 3 năm 1944. Tình báo Đức Quốc Xã đã thay đổi các đoạn mã Enigma ngay sau khi quân Đồng Minh đổ bộ vào ngày 6 tháng 6, nhưng chỉ mất hơn một tuần để tình báo Đồng Minh tìm cách phá được các đoạn mã hóa mới của người Đức.[44]

Phát triển công nghệ

Cảng nhân tạo 'Mulberry B' tại khu vực Arromanches, 27 tháng 10 năm 1944.

Sau thảm họa tại Dieppe, quân đội Đồng Minh đã phát triển các loại công nghệ, trang thiết bị và vũ khí mới để đảm bảo sự thành công hoàn toàn của Chiến dịch Overlord. Để hỗ trợ các cuộc pháo kích hải quân và oanh tạc sơ bộ, nhiều tàu đổ bộ đã được cải tiến để trang bị pháo và súng chống tăng để có thể cung cấp thêm hỏa lực hỗ trợ và yểm trợ tầm gần.[45] Phe Đồng Minh quyết định không đổ bộ thẳng vào các khu vực cảng tại Pháp, thay vào đó, họ đã xây dựng hai cảng nhân tạo, được gọi là Cảng nhân tạo Mulberry. Mỗi tổ hợp cảng nhân tạo bao gồm một lớp đê chắn sóng nổi bao bọc bên ngoài, một lớp thùng chắn bằng bê tông bên trong (được gọi là đê chắn sóng Phoenix), và một số đoạn cầu nổi.[46] Ngoài ra, các cảng Mulberry sẽ được bao bọc thêm bởi một dãy xác tàu, được gọi là "Gooseberry".[47] Đề phòng trường hợp các đơn vị trên bộ không có đủ nhiên liệu, phe Đồng Minh đã phát triển một hệ thống ống dẫn nhiên liệu "Đường Ống dưới Đại dương" ("Pipe-Line Under The Ocean" - PLUTO). Các đường ống có đường kính 3 inch, sẽ được lắp đặt dưới thềm của Eo biển Manche, chạy từ Đảo Wight tới cảng Cherbourg, vào ngày D+18. Tuy nhiên, các vấn đề kỹ thuật và quá trình chiếm cảng Cherbourg chậm trễ đã làm lùi việc sử dụng đường ống này tới ngày 22 tháng 9. Một tuyến đường ống nhiên liệu thứ hai đã được lắp đặt, chạy từ Dungeness tới Boulogne vào cuối tháng 10 năm 1944.[48]

Quân đội Anh đã phát triển và nâng cấp một loạt các loại xe thiết giáp chuyên dụng, có biệt danh là "Những gã hề của Hobart" (Hobart's Funnies), để thích ứng với điều kiện tại khu vực Normandie.[49] Dưới sự giám sát của Thiếu tướng Percy Hobart, chỉ huy Sư đoàn Thiết giáp 79 Anh Quốc, các xe tăng M4 Sherman và Churchill đã được nâng cấp và cải tiến thành nhiều loại xe với các nhiệm vụ riêng biệt như Sherman Crab (làm nhiệm vụ quét mìn), Churchill Crocodile (xe tăng Churchill trang bị súng phun lửa), Churchill AVRE, Sherman Duplex-Drive (xe tăng lội nước tự hành được giữ nổi bằng cách sử dụng một tấm bạt chống thấm nước được bơm căng bằng khí nén),...[50][51]

"Dương Đông - Kích Tây"

Phù hiệu vai được thiết kế cho các đơn vị "giả" của Cụm tập đoàn quân Hoa Kỳ số 1, do Trung tướng George Patton làm chỉ huy trưởng.

Vài tháng trước Chiến dịch Overlord, quân đội Đồng Minh đã tiến hành Chiến dịch Bodyguard, một chiến dịch đánh lạc hướng lớn đánh lừa quân Đức về thời gian và địa điểm của một cuộc đổ bộ lớn của quân Đồng Minh, trong đó có Chiến dịch Fortitude, được lập ra để đánh lạc hướng Bộ chỉ huy Tối cao Đức khỏi khu vực Normandie.[52] Chiến dịch Fortitude bao gồm hai chiến dịch nhỏ là Fortitude North và Fortitude South. Chiến dịch Fortitude North là một chiến dịch "dương Đông, kích Tây" của Anh Quốc và tình báo Anh sẽ sử dụng những đường truyền vô tuyến giả nhằm khiến quân Đức tin rằng sẽ có một cuộc tấn công vào Na Uy. Chiến dịch Fortitude South, một chiến dịch đánh lạc hướng lớn bao gồm việc thành lập Cụm tập đoàn quân Hoa Kỳ số 1 do Trung tướng George S. Patton chỉ huy.[53] Đơn vị "giả" này được tình báo Anh phao tin là đóng quân ở KentSussex, nhằm đánh lừa quân Đức tin rằng cuộc đổ bộ chính sẽ diễn ra tại Calais.

Mẫu xe tăng bơm hơi được quân Đồng Minh sử dụng trong Chiến dịch Fortitude South.

Quân đội Đồng Minh đồng thời lắp đặt nhiều đơn vị xe tăng, xe tải bơm hơi, xuồng đổ bộ giả và tập trung lại ven biển để đánh lừa quân Đức.[33][54] Vài thông điệp vô tuyến chính của Cụm tập đoàn quân 21 sẽ được chuyển đến Kent và sau đó được phát đi trên các kênh liên lạc tại đó, để khiến người Đức tin rằng phần lớn các đơn vị Đồng Minh đang đóng quân ở Kent.[55] Patton được chỉ định ở lại Anh tới ngày 6 tháng 7, nhằm tiếp tục đánh lừa người Đức rằng sẽ có một cuộc đổ bộ thứ hai tại Calais.[56] Bịnh lính và nhân viên dân sự được lệnh không tiết lộ bất kỳ thông tin vào về chiến dịch với những người không liên quan, và các đơn vị tham gia vào cuộc đổ bộ đều bị cô lập và kiểm soát việc ra vào rất gắt gao.[33] Thiếu tướng Henry J. F. Miller, Tham mưu trưởng Không đoàn 9, đã bị giáng chức (Thiếu tướng xuống Trung tá) và được đưa về nước sau khi ông tiết lộ thông tin về ngày đổ bộ của chiến dịch với một sĩ quan khác trong một bữa tiệc ở Anh.[33]

Người Đức nghĩ rằng họ vẫn duy trì được một mạng lưới gián điệp rộng khắp hoạt động ở Anh, nhưng trên thực tế, tất cả các điệp viên của họ đã bị bắt, và một số đã trở thành điệp viên hai mang làm việc cho Đồng Minh như một phần của Hệ thống Double-Cross. Juan Pujol García, một tình báo viên người Tây Ban Nha của MI5, được tình báo Đức Quốc xã biết đến với mật danh "Garbo", đã dành hai năm để phát triển một hệ thống mạng lưới cung cấp thông tin giả để đánh lừa người Đức. Trong những tháng trước Ngày D, Pujol đã gửi hàng trăm tin nhắn (do cơ quan tình báo Anh MI5 chuẩn bị) cho cấp trên của mình ở Madrid để thuyết phục người Đức rằng sẽ có một cuộc tấn công sẽ diễn ra vào tháng 7 tại Calais.[55][57]

Nhiều trạm radar của quân đội Đức đặt dọc bờ biển Pháp đã bị phá hủy để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ.[58] Ngoài ra, vào đêm trước cuộc đổ bộ, một nhóm nhỏ bao gồm các toán Đặc nhiệm SAS sẽ thả các hình nộm lính dù vào khu vực Le Havre và Isigny, để khiến quân Đức tin rằng có một cuộc đổ bộ lớn của lính dù diễn ra tại các khu vực đó. Trong cùng đêm, Không đoàn 617 Không quân Hoàng Gia Anh sẽ tiến hành Chiến dịch Taxable - một chiến dịch thả các mồi kim loại nhiễu xạ lớn nhằm tạo các mảng sáng trên màn hình radar Đức, khiến người Đức tin rằng có một hạm đội tàu chiến lớn tại khu vực Le Havre. Một chiến dịch tương tự, Chiến dịch Glimmer, được thực hiện gần Boulogne-sur-Mer, Pas-de-Calais, bởi Không đoàn 218 Không quân Hoàng Gia Anh.[59]

Diễn tập và bảo mật thông tin

Tàu đổ bộ LCT của Hải quân Hoa Kỳ trong một buổi huấn luyện đổ bộ tại Slapton, Devon, Anh.

Các đợt tập trận để chuẩn bị cho Chiến dịch Overlord đã được tiến hành vào đầu tháng 7 năm 1943.[60] Các bãi biển gần thị trấn Slapton, hạt Devon, vì có nhiều điểm tương đồng với khu vực đổ bộ tại Normandie, nên đã được quân Đồng Minh trưng dụng cho việc huấn luyện. Người dân được sơ tán khỏi thị trấn vào tháng 12 năm 1943, và thị trấn được các đơn vị Đồng Minh tiếp quản để sự dụng cho việc huấn luyện đổ bộ và xử lý các chướng ngại vật.[61] Ngày 28 tháng 4 năm 1944, ước tính 749 binh lính và thủy thủ Mỹ đã thiệt mạng khi tàu đổ bộ của họ bất ngờ bị các xuồng phóng lôi của Đức tấn công trong lúc tiến hành Cuộc tập trận Tiger.[62][63] Các cuộc tập trận với tàu đổ bộ và sử dụng đạn thật cũng diễn ra tại Trung tâm Huấn luyện Liên hợp ở Inveraray, Scotland.[64] Các cuộc tập trận Hải quân được tổ chức ở Bắc Ireland, và các nhóm quân y sẽ ở London và các khu vực lân cận để huấn luyện các xử lý các thương binh mà họ mong đợi sẽ gặp phải trong cuộc đổ bộ thực.[65] Lính dù cũng tiến hành nhiều cuộc tập trận lớn, bao gồm một đợt diễn tập quy mô lớn vào ngày 23 tháng 3 năm 1944, với có mặt của các vị lãnh đạo và sĩ quan cấp cao như Thủ tướng Winston Churchill và Đại tướng Eisenhower.[66]

Các sĩ quan cấp cao Đồng Minh coi sự bất ngờ là yếu tố quan trọng của Chiến dịch Overlord. Thông tin về ngày và địa điểm chính xác của cuộc đổ bộ chỉ được cung cấp cho các cấp sĩ quan cao nhất của các đơn vị.[67] Binh lính tham gia vào cuộc đổ bộ bị cô lập trong các khu vực tập trung từ cuối tháng 5.[68] Họ không được phép tiếp xúc với người bên ngoài và được huấn luyện nhanh về cách sử dụng bản đồ chính xác đến từng chi tiết, nhưng họ không được biết tên của các địa danh trên bản đồ đó tới khi họ đang trên đường tiến về Normandie.[69] Việc di chuyển và du lịch từ Ireland đến Anh đã bị cấm và việc di chuyển trong phạm vi vài kilomét tính từ đường bờ biển Anh bị hạn chế đến mức tối đa.[70]

Dự báo thời tiết

Các nhà lập kế hoạch đã đặt ra một chuỗi các điều kiện cần liên quan đến mặt trăng, thủy triều và thời gian trời sáng trong ngày, vốn chỉ có thể xảy ra đồng thời vài ngày mỗi tháng, để cuộc đổ bộ có thể tiến hành một cách trơn tru nhất. Đêm trăng tròn là rất cần thiết, vì đêm sẽ đủ sáng giúp các phi công có thể định hướng tốt nhất và cũng là ngày có thủy triều cao nhất. Bộ chỉ huy Đồng Minh muốn đổ bộ vào trước bình minh, trước lúc thủy triều lên. Điều này sẽ giúp cải thiện rõ tầm nhìn để xác định cụ thể các chướng ngại vật trên bãi biển, và rút ngắn thời gian binh lính phải di chuyển bãi biển trống.[71] Tướng Eisenhower đã dự tính chọn ngày 5 tháng 6 làm ngày mở màn. Tuy nhiên, vào ngày 4 tháng 6, thời tiết được báo cáo là không thích hợp để đổ bộ: gió lớn và biển động mạnh sẽ ngăn cản việc triển khai các xuồng đổ bộ, và dãy mây thấp sẽ cản trở việc máy bay tìm kiếm các mục tiêu để tấn công.[72]

Bản đồ Phân tích thời tiết bề mặt cùng các front thời tiết vào ngày 5 tháng 6.

Đại tá James Stagg - một sĩ quan Khí tượng học của Không quân Hoàng Gia, đã gặp Eisenhower vào chiều ngày 4 tháng 6. Ông cùng nhóm nghiên cứu khí tượng của mình dự đoán rằng thời tiến sẽ cải thiện đủ tốt để tiến hành đổ bộ vào ngày 6 tháng 6.[73] Ngày thích hợp tiến theo, với những điều kiện cần thiết tương tự (nhưng sẽ không có đêm trăng tròn), là từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 6, hai tuần sau đó. Việc hoãn lại toàn bộ cuộc xâm lược đồng nghĩa với việc phải rút toàn bộ binh lính và tàu chiến đang sẵn sàng vượt Eo biển Manche, và sẽ làm tăng nguy cơ khiến kế hoạch tấn công bị người Đức phát hiện. Sau nhiều cuộc thảo luận với các chỉ huy Đồng Minh cấp cao khác, Eisenhower quyết định tiến hành cuộc đổ bộ vào ngày 6 tháng 6.[74] Họ được dự báo rằng sẽ có một cơn bão lớn tại khu vực Normandie từ ngày 19 tới ngày 22 tháng 6, khiến việc đổ bộ vào thời điểm đó là không thể.

Do quân Đồng Minh đã kiểm soát được phần lớn khu vực Đại Tây Dương, các đơn vị khí tượng của Đức gặp nhiều khó khăn trong việc dự báo và chỉ có được ít thông tin về thời tiết sắp tới.[58] Trung tâm khí tượng của Không quân Đức Quốc Xã tại Paris dự báo rằng sẽ có bão kéo dài hai tuần ở miền bắc nước Pháp. Do đó, nhiều sĩ quan cấp cao của quân đội Đức đã rời sở chỉ huy để tham gia một buổi chơi đánh trận giả ở Rennes và nhiều binh sĩ được nghỉ phép.[75] Thống chế Erwin Rommel đã quay về Đức để dự buổi sinh nhật vợ ông và chuẩn bị cho buổi gặp mặt với Adolf Hitler để thuyết phục Hitler điều động thêm nhiều xe tăng đến khu vực Normandie.[76]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Overlord_(1944) http://www.cmp-cpm.forces.gc.ca/dhh-dhp/his/docs/V... //lccn.loc.gov/53-61717 http://www.history.navy.mil/faqs/faq109-1.htm //doi.org/10.1080%2F13518046.2015.998134 http://www.ibiblio.org/hyperwar/UN/Canada/CA/OpSum... http://www.ibiblio.org/hyperwar/USA/USA-E-Supreme/... http://www.ibiblio.org/hyperwar/USA/ref/Casualties... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... //www.worldcat.org/issn/1351-8046 //www.worldcat.org/oclc/1175409